Như Dân Việt đưa tin, sau nhiều ngày tìm kiếm, trưa 27/10, lực lượng công an đã tìm thấy thi thể nữ sinh Học viện Ngân hàng bị sát hại, cướp tài sản dưới sông Nhuệ đoạn qua xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, TP.Hà Nội.
2 nghi phạm sát hại nữ sinh Học viện ngân hàng cũng nhanh chóng bị lực lượng công an bắt giữ.
Tại cơ quan Công an, Trung khai nhận khoảng 18h ngày 23/10, Trung rủ Quân đi trộm cắp 2 bộ cốp pha công trình trên địa bàn xã Tiền Phong, huyện Thường Tín.
Sau đó Trung, Quân dùng xe máy mang đồ trộm cắp đi tiêu thụ. Khi cả hai đi đến đường đê Sông Nhuệ thuộc địa phận xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Trung thấy nữ sinh Trần Thuý Hiền (Học viện Ngân hàng) đang đứng nghe điện thoại nên đã nảy sinh ý định cướp tài sản.
Trung đã bàn bạc với Quân việc cướp điện thoại của nữ sinh rồi đẩy nạn nhân xuống sông. Sau đó, Trung lấy điện thoại và xe đạp điện của Hiền mang đi bán, điện thoại được bán với giá 500.000 đồng, xe đạp điện bán được 2,8 triệu đồng.
Đến 21 giờ cùng ngày, Trung gọi cho Quân đến đón rồi cả hai ra khu vực nghĩa trang Hà Hồi sử dụng ma túy, tại đây Trung chia cho Quân số tiền 700.000 đồng.
Hiện các lực lượng chức năng Công an TP.Hà Nội đang tiếp tục điều tra, làm rõ vụ việc; khẩn trương truy bắt đối tượng Quân để xử lý nghiêm các đối tượng theo quy định pháp luật
Luật sư Nguyễn Anh Thơm, Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho biết, hành vi đẩy nữ sinh xuống sông để cướp xe đạp điện và điện thoại khiến nữ sinh tử vong là hành vi hết sức tàn nhẫn, mất tính người, coi thường pháp luật.
Hành vi đẩy nữ sinh xuống sông Nhuệ khiến nạn nhân tử vong là hành vi giết người. Với hành vi này các đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội giết người" theo quy định tại điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015. Tội danh này sẽ bị phạt tù thấp nhất là 12 năm, cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình.
Còn với hành vi cướp tài sản là điện thoại và chiếc xe đạp điện thì các đối tượng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội cướp tài sản" theo điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015, hình phạt thấp nhất là 7 năm tù, cao nhất có thể là tù chung thân.
Theo luật sư Thơm, thông thường, với những vụ việc, đối tượng thực hiện hành vi cấu thành tội phạm của hai tội đặc biệt nghiêm trọng là "giết người" và "cướp tài sản" thì đối tượng chủ mưu cầm đầu, thực hành vi này sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất là tử hình.
Đối tượng giúp sức hoặc có nhiều tình tiết giảm nhẹ sẽ được xem xét phù hợp với hành vi phạm tội.
Luật sư Thơm cho biết thêm, ngoài 2 tội danh là tội giết người và cướp tài sản nêu trên, cơ quan điều tra sẽ làm rõ giá trị tài sản là bộ cốp pha mà các đối tượng vừa trộm cắp được.
Trường hợp có căn cứ cho thấy giá trị của tài sản trộm cắp từ 2.000.000 đồng trở lên thì hai đối tượng này sẽ bị xử lý thêm về "tội trộm cắp tài sản" theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Mức phạt tù cho tội danh này thấp nhất là 6 tháng, cao nhất là 20 năm tù.
Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội giết người cụ thể như sau: 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02 người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. 3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội cướp tài sản cụ thể như sau: 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; h) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; c) Làm chết người; d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |