Cây thuốc chữa đờm ho, hen suyễn rất hiệu nghiệm chính là củ chóc.
Theo GS.TS Phạm Xuân Sinh (nguyên Chủ nhiệm Bộ môn dược học cổ truyền, Đại học Dược Hà Nội), củ chóc [Tiphonium trilobatum (L.) Schott], họ Ráy (Araceae), còn gọi là bán hạ nam, là cây mọc hoang ở hầu hết các địa phương trong nước ta. Thường mọc ở các vùng đất ẩm thấp, hoặc dưới tán các cây khác.
Theo YHCT, củ chóc có tác dụng giáng nghịch, trừ đờm, chống ho, chống nôn. Điều đó cũng phù hợp với các thực nghiệm đã tiến hành trên động vật. Trên lâm sàng thường dùng trị các chứng bệnh ho do đàm thấp, biểu hiện ho có đờm nhiều, hoặc ho do viêm phế quản mạn tính. Còn dùng khi vị khí thượng nghịch gây nôn. Có thể dùng ngoài, lấy củ chóc tươi, để giải độc, giảm đau, khi bị ong châm, rắn cắn. Liều dùng chung từ 4- 12 g/ngày dưới dạng thuốc sắc, hoặc thuốc tán, thuốc hoàn.
Vào mùa đông, khi lá chóc đã lụi, đào lấy thân rễ, thường gọi là củ, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, rồi bổ đôi hoặc bổ 3 tùy theo kích thước của củ. Phơi khô hoặc sấy khô. Vì củ chóc có vị tê, ngứa nhiều nên trước khi dùng để uống, cần phải chế biến thật cẩn thận để loại bỏ các chất gây tê, ngứa.
Có thể dùng các phụ liệu, như nước vôi tôi, dung dịch phèn chua, hoặc nước sắc cam thảo, nước sắc bồ kết để chế biến củ chóc, sau khi đã ngâm củ chóc với nước sạch từ 1-3 tuần, tùy theo mùa, mùa lạnh ngâm lâu, mùa nóng ngâm nhanh hơn; hàng ngày có quấy đảo và thay nước 2-3 lần.
Cuối cùng, cần phơi khô, hoặc sấy khô. Trước khi sử dụng, cần tiến hành sao vị thuốc với trấu tới khi có mầu vàng, nhấm hết vị tê, ngứa.
Một số chứng, bệnh dùng củ chóc
- Trị chứng ho đờm, hoặc sốt kèm theo ho, miệng khát, khó thở:
Củ chóc (chế) 6 g, ma hoàng, tô tử, đình lịch tử, mỗi vị 8 g, xạ can, hạnh nhân, mỗi vị 10 g, sinh khương 4 g, thạch cao 20 g, đại táo 12 g. Thạch cao đập vụn, gói vào túi vải sạch, rồi cùng sắc với các vị thuốc trong phương; uống ngày một thang, chia 3 lần, trước bữa ăn, tới khi hết các triệu chứng.
- Trị chứng đờm hàn, ho, tim hồi hộp, khó ngủ
Củ chóc (chế ) 8 g, chỉ thực, trần bì, bạch linh, cam thảo, mỗi vị 10 g, trúc nhự 8 g. Sắc, ngày một thang, chia 3 lần, uống trước bữa ăn.
- Trị các chứng ho, nhiều đờm trắng và loãng, ho lâu ngày hoặc khi vị khí xông lên vùng thượng tiêu, gây lợm giọng, buồn nôn: Củ chóc (chế) 12 g, trần bì, bạch phục linh, mỗi vị 10 g, cam thảo 8 g. Sắc ngày một thang, chia 3 lần, uống trước bữa ăn 1 giờ.
- Trị chứng ho, khó thở, hen suyễn lâu ngày:
Củ chóc (chế), tô tử, hạnh nhân, mỗi vị 8 g, trần bì, bạch linh, cam thảo, mỗi vị 10g. Sắc uống, ngày một thang. Cũng có thể dùng củ chóc 12 g, ma hoàng (bỏ rễ) chích mật ong 8 g, bồ kết 6 g (bỏ hạt), sao vàng. Cả 3 vị thuốc trên đem tán thành bột mịn, mỗi lần uống 2-3 g với nước ấm, ngày 2-3 lần. Uống đến khi các triệu chứng thuyên giảm.
- Trị viêm phế quản mạn tính, khí suyễn, đờm nhiều
Củ chóc (chế) 15g, ma hoàng, bạch thược, mỗi vị 10g, quế chi, tế tân, ngũ vị tử, can khương, sinh cam thảo, mỗi vị 5 g, dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang. Uống nhiều ngày, tới khi các triệu chứng thuyên giảm, hoặc củ chóc (chế), tô tử, mỗi vị 15g, trần bì, cam thảo, mỗi vị 10g, dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang. Uống nhiều ngày tới khi các triệu chứng thuyên giảm
- Trị chứng hen suyễn lâu ngày, da xanh xao, thiếu máu
Củ chóc (chế) 8g, trần bì, phục linh, cam thảo, mỗi vị 10g, đương quy, thục địa, mỗi vị 12g. Sắc uống, ngày một thang.
Cây thuốc củ chóc mọc ở rất nhiều nơi, rất dễ kiếm. Ảnh minh họa: Internet
Củ chóc (chế), trần bì, bạch phục linh, mỗi vị 250g, cam thảo 75g. Đem 4 vị thuốc trên, sao khô, tán bột mịn, trộn với dịch 100g gừng tươi, làm viên hoàn, mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 9 -15g.
Củ chóc tốt nhưng cần lưu ý, những người có thai, hoặc những người có chứng táo nhiệt, không nên dùng.
Chữa viêm họng, ho có đờm bằng quả sung. Nguồn: Mẹo vặt sức khỏe