Bộ Y tế vừa có văn bản gửi Sở Y tế tỉnh Cao Bằng; Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương về việc chủ động tăng cường công tác phòng, chống bệnh bạch hầu
Trước đó, 1 học sinh (sinh năm 2013, xã Thạch Lâm, huyện Bảo Lâm, Cao Bằng) đã được xác nhận tử vong do bệnh bạch hầu vào ngày 21/11. Như vậy, từ đầu năm đến nay, Việt Nam ghi nhận 10 ca mắc bạch hầu, trong đó có 2 ca tử vong.
Cụ thể, có 3 trường hợp mắc tại tỉnh Hà Giang (trong các tháng 1, 2, và 4 tại các ổ dịch cũ); 1 trường hợp mắc và tử vong tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An (tháng 6); 2 trường hợp mắc tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (tháng 7); 3 trường hợp mắc ở huyện Mường Lát,Thanh Hóa (tháng 8) và 1 trường hợp mắc, tử vong mới đây tại huyện Bảo Lâm, Cao Bằng.
Nhân viên y tế phun khử khuẩn phòng bệnh bạch hầu tại xã Bảo Lâm, huện Bảo Lâm, Cao Bằng - nơi có 1 bé 11 tuổi tử vong vì bệnh bạch hầu. Ảnh CDC Cao Bằng
Còn trong năm 2023, cả nước cũng có 57 ca mắc bệnh bạch hầu, trong đó có 7 trường hợp tử vong.
Nhận định về tình hình bệnh bạch hầu, TS Hoàng Minh Đức, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), cho biết các ổ dịch nhỏ vẫn trong tầm kiểm soát, nguy cơ lây nhiễm thành dịch lớn, diện rộng là thấp, chưa gây ra dịch bệnh phức tạp.
Theo TS Đức, bệnh bạch hầu thường gặp ở trẻ nhỏ, nhưng người lớn cũng có thể mắc nếu không có miễn dịch.
Lý giải về việc thi thoảng lại có ổ dịch bạch hầu và có người tử vong vì bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này, TS Đức cho biết, bệnh bạch hầu chưa được loại trừ, virus vẫn tồn tại ở các "vùng trũng" tiêm vaccine, các đối tượng chưa đạt được tỷ lệ tiêm vaccine tạo an toàn cho cộng đồng nên thi thoảng lại có người mắc bệnh bạch hầu.
Bệnh này nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây biến chứng nguy hiểm, tử vong nhanh.
TS Đức cho biết, vaccine phòng bệnh bạch hầu được sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng từ năm 1985, đã tạo được miễn dịch trong cộng đồng, giúp giảm số mắc hàng trăm lần so với thời điểm năm 1983, với khoảng 3.500 ca.
Vì thế, cách phòng ngừa bệnh tốt nhất vẫn là vẫn là tiêm vaccine phòng bệnh đầy đủ cho trẻ.
Ông Đức cho biết bệnh bạch hầu có thể lây nhiễm qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi.
Vì vậy, khi phát hiện có ca nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, Chính quyền và y tế địa phương cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp xử lý triệt để các ổ dịch, không để bùng phát dịch trong cộng đồng.
Đối với những người tiếp xúc gần với các trường hợp xác định mắc bệnh bạch hầu, Bộ Y tế khuyến nghị tự theo dõi sức khỏe cách ly tại nhà trong vòng 14 ngày, đồng thời liên hệ với cán bộ y tế để được hướng dẫn phát hiện các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh và uống thuốc kháng sinh dự phòng.
Bộ Y tế cũng đề nghị các địa phương không lạm dụng việc cách ly rộng rãi một cách không cần thiết, không đúng đối tượng, gây hoang mang lo lắng và xáo trộn cuộc sống của người dân.
TS Đức cũng khuyến cáo người dân đưa trẻ (từ 2 tháng đến 7 tuổi) thuộc đối tượng tiêm chủng mở rộng đi tiêm chủng các vaccine có chứa thành bạch hầu (DPT-VGB-Hib, DPT…) đầy đủ, đúng lịch để đảm bảo miễn dịch phòng bệnh cho trẻ trong độ tuổi tiêm chủng.
Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải đến cơ sở y tế để khám, điều trị kịp thời. Người dân tại nơi có ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc điều trị dự phòng và tiêm vaccine phòng bệnh theo chỉ định và khuyến cáo của cơ quan y tế.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh Lý – Trưởng khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ cho biết, bệnh bạch hầu là bệnh cấp tính do vi khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheria) gây ra, thường xuất hiện ở hệ hô hấp gồm tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Ngoài ra cũng gặp trên da, kết mạc mắt, hoặc bộ phận sinh dục.
Bệnh có nguy cơ lây truyền cao trong cộng đồng, đặc biệt là ở trẻ em. Thời gian ủ bệnh có thể kéo dài từ 2 đến 10 ngày, tùy thuộc vào tính chất của vi khuẩn. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh bạch hầu có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm và dẫn đến tử vong chỉ trong thời gian ngắn từ 7 đến 10 ngày.
Các triệu chứng của bệnh bạch hầu khá giống với bệnh viêm họng, viêm amidan thông thường nên nhiều người dễ bị nhầm lẫn, dẫn đến việc phát hiện muộn, gây ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị.