Thứ sáu, 22/11/2024 | 07:45
RSS

Bệnh Parkinson là gì? Triệu chứng và dấu hiệu bệnh Parkinson

Thứ tư, 25/09/2019, 10:31 (GMT+7)

Bệnh Parkinson là một trong những bệnh thoái hóa hệ thần kinh tiến triển thường gặp ở người lớn tuổi. Triệu chứng của bệnh Parkinson gồm liên tục run lúc nghỉ, cử động chậm, đơ cứng, rối loạn dáng đi...

Bác sĩ Trần Ngọc Tài, Phó trưởng khoa Thần kinh, Trưởng Đơn vị rối loạn vận động Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, cho biết Parkinson là một trong những bệnh thoái hóa hệ thần kinh tiến triển thường gặp ở người lớn tuổi. Diễn tiến bệnh ngày càng nặng dần gây khó khăn cho các hoạt động sống hằng ngày, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Nếu không được chẩn đoán và điều trị phù hợp, sau 5 đến 7 năm, người bệnh sẽ có nguy cơ bị tàn phế.

Bệnh Parkinson là gì?

Bệnh Parkinson là một rối loạn cấp cao của hệ thần kinh có ảnh hưởng đến vận động. Bệnh không phát triển ngay lập tức, đôi khi sự khởi đầu của bệnh này là một chấn động hầu như không đáng kể ở trong một tay. Người ta tin rằng tình trạng run có thể là dấu hiệu phổ biến nhất của bệnh Parkinson, các rối loạn bổ sung cũng thường gây ra độ cứng hay chậm của chuyển động.

Liên tục run khi nghỉ là triệu chứng chính của bệnh Parkinson, làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng vận động của người bệnh. Ảnh: Medere

Liên tục run khi nghỉ là triệu chứng chính của bệnh Parkinson, làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng vận động của người bệnh. Ảnh: Medere

Nguyên nhân gây bệnh Parkinson là gì?

Bệnh Parkinson đã được chứng minh là do các tế bào thần kinh nhất định (neuron) trong não dần dần chết gây ra. Kết quả là, nhiều triệu chứng biểu hiện do mất tế bào thần kinh sản xuất ra một chất hóa học trong não của bạn được gọi là dopamine. Khi nồng độ dopamine giảm, nó gây ra hoạt động não bất thường, dẫn đến dấu hiệu của bệnh Parkinson.

Những ai thường mắc phải bệnh Parkinson?

Bệnh Parkinson thường bắt đầu trong khoảng giữa và cuối cuộc đời cũng như nguy cơ mắc bệnh tăng theo tuổi. Mọi người thường phát triển bệnh từ khoảng 60 tuổi trở lên. Đàn ông nhiều khả năng mắc tình trạng này hơn phụ nữ.

Tuy nhiên, bạn có thể kiểm soát được bệnh bằng cách giảm thiểu các yếu tố nguy cơ. Hãy thảo luận với bác sĩ để biết thêm thông tin.

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị bệnh Parkinson?

Bạn có rủi ro cao hơn mắc tình trạng này nếu đang gặp những điều kiện sau đây:

Tuổi tác

Thanh niên hiếm khi gặp bệnh Parkinson. Bệnh Parkinson thường bắt đầu trong khoảng giữa và cuối cuộc đời. Mọi người thường phát triển bệnh từ khoảng 60 tuổi trở lên.

Yếu tố di truyền

Nếu bạn có một người thân bị bệnh Parkinson sẽ làm tăng cơ hội phát triển bệnh. Tuy nhiên, rủi ro vẫn còn ít, trừ khi bạn có nhiều người thân trong gia đình của bạn mắc bệnh Parkinson.

Giới tính

Đàn ông có nhiều khả năng phát triển bệnh Parkinson hơn là phụ nữ.

Tiếp xúc với độc tố

Tiếp xúc liên tục với thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu có thể đặt bạn vào nguy cơ tăng nhẹ mắc bệnh Parkinson.

Triệu chứng thường gặp của bệnh

Theo TS. BS. Ngô Thị Phượng – Bệnh viện TWQĐ 108 cho biết, ở giai đoạn sớm các triệu chứng của bệnh Parkinson hay gặp có thể là: mệt mỏi, đau cơ, vụng về khi thực hiện các động tác đơn giản (đi tất, đi giầy, tra chìa khóa…), rối loạn chữ viết (chữ viết nhỏ dần), táo bón, trầm cảm, kéo lê một chân hoặc giảm hoạt động một tay khi vận động, bong vảy da ở mặt, gối. Cũng có khi triệu chứng sớm là run khi nghỉ không liên tục, kín đáo.

Khi điển hình bệnh Parkinson biểu hiện bằng ba triệu chứng cơ bản là:

+ Run thấy rõ ở ngọn chi, môi, lưỡi. Run thường khu trú ở một bên cơ thể trong nhiều năm đầu, run có thể tạm mất khi vận động, nhưng sau đó lại tái diễn, khi ngủ hết run, xúc động tăng run, tuy nhiên, có trường hợp hoàn toàn không run.

+ Cứng đơ: là một trong các triệu chứng quan trọng nhất, chân tay cứng ở tất cả các nhóm cơ, đi lại khó, sờ nắn các cơ thấy chắc, cứng.

+ Giảm vận động: mất các động tác tự nhiên của nét mặt, của chân tay, nhất là khi cử động. Mất vẻ biểu lộ tình cảm, nét mặt như người mang mặt nạ, ít chớp mắt.

- Các triệu chứng khác: thường có loạn cảm đau, đứng ngồi không yên, nóng bức, tăng tiết, phù, tím tái ngọn chi, rối loạn cương, hạ huyết áp tư thế, trầm cảm lo âu (khoảng 35 đến 40%), một số ít có thể có ảo thị, hoang tưởng, trí tuệ còn tốt, có thể gặp sa sút trí tuệ ở giai đoạn nặng…

Trong bệnh Parkinson, chưa có xét nghiệm đặc hiệu cho bệnh Parkinson. Tuy nhiên các xét nghiệm giúp cho chẩn đoán nguyên nhân gây các hội chứng parkinson.

Các giai đoạn tiến triển của bệnh Parkinson:

- Giai đoạn 1: Có các dấu hiệu ở 1 bên cơ thể, bệnh nhân vẫn tự chủ trong các sinh hoạt.

- Giai đoạn 2: có các dấu hiệu ở hai bên nhưng không bị mất thăng bằng.

- Giai đoạn 3: có triệu chứng cả 2 bên cơ thể có mất thăng bằng nhưng bệnh nhân vẫn tự chủ được trong hoạt động tuy có bị hạn chế.

- Giai đoạn 4: bị suy giảm chức năng nặng nhưng vẫn có thể đi đứng được cần sự hỗ trợ một phần.

- Giai đoạn 5: bệnh nhân phải ngồi xe lăn hoặc nằm tại giường, không còn tự chủ được.

Điều trị bệnh Parkinson

1. Các nhóm thuốc điều trị bệnh Parkinson

Có nhiều nhóm thuốc điều trị Parkinson là nhóm ức chế cholin (ví dụ: Artan, Trihex...) nhóm các thuốc kích thích trực tiếp các thụ thể dopamin (Sifrol, Trivastal), Các thuốc thay thế dopamin (levo dopa) là thuốc bổ sung dopamin kịp thời và đúng cơ chế bệnh sinh (thuốc thường dùng là Madopar, Syndopar, Sinemet..) và các thuốc ức chế hủy dopamin (nhóm này hiện nay ít có trên thị trường Việt nam). Nếu dùng nhóm levo dopa thì không nên kết hợp với vitamin B6.

Cách sử dụng: khởi đầu bằng liều thấp, tăng dần tới liều tác dụng và duy trì liều, nếu muốn thay thế thuốc khác phải thay thế dần dần, không dừng đột ngột.

Tác dụng không mong muốn: tùy nhóm thuốc mà có các tác dụng không mong muốn, tuy nhiên các biểu hiện hay gặp là: khô mắt, khô miệng, buồn ngủ, nhịp tim nhanh, dị ứng, hạ huyết áp tư thế, loạn nhịp tim, đau bụng, buồn nôn, khó tiêu, táo bón… liều cao có thể gây lú lẫn, ảo giác, kích động.

Ngoài các nhóm trên, có thể dùng thêm nhóm thuốc bảo vệ và dinh dưỡng thần kinh, nhóm này không đặc trưng cho bệnh Parkinson nhưng cũng có tác dụng theo cơ chế chống gốc tự do và dinh dưỡng thần kinh.

2. Các phương pháp điều trị khác

Trong điều trị bệnh Parkinson, lựa chọn đầu tiên là điều trị bằng thuốc, các phương pháp khác chỉ sử dụng khi điều trị nội khoa ít kết quả. Gồm có các phương pháp sau: Phẫu thuật, kích thích não ở sâu, xạ phẫu... Điều trị bằng phục hồi chức năng, y học cổ truyền: tác dụng hạn chế, chưa có công bố các nghiên cứu.

Tai biến, biến chứng hay gặp

Bệnh Parkinson là bệnh mạn tính tiến triển nặng dần, ngoài các tác dụng phụ của các thuốc điều trị ở trên còn gặp các tai biến, biến chứng sau:

Suy mòn, suy kiệt do chức năng đường ruột kém, bệnh nhân run nhiều mất năng lượng.

Thiếu vitamin D nên dễ gây loãng xương do tình trạng ít vận động.

Dễ bị ngã do mất thăng bằng, kết hợp với loãng xương vì vậy nguy cơ gãy xương cao, nhất là gãy cổ xương đùi.

Bội nhiễm phổi hoặc viêm phổi nhất là giai đoạn nặng do bệnh nhân suy mòn kết hợp co cứng cơ nên mất khả năng ho khạc.

Lời khuyên cho bệnh nhân mắc Parkinson

Nên cho bệnh nhân năng đi lại, đi chậm, bước dài chân, tập thở sâu, tắm nắng…ăn tăng cường dinh dưỡng, các thực phẩm dễ tiêu, giàu vitamin, nhất là vitamin D. Có các biện pháp hạn chế nhiễm trùng hô hấp như giữ ấm đường thở, tăng cường sức đề kháng. Phòng và tránh ngã để hạn chế nguy cơ gãy xương…

Hưng Tuấn (TH)
Theo Đời sống Plus/GĐVN