Một bạn đọc hỏi: Hiện nay sổ đỏ nhà tôi đứng tên chồng. Vậy, khi bán đất thì tôi có phải ký tên không?
Trả lời: Một sổ đỏ có thể đứng tên một hoặc nhiều người, trong đó tất cả những người có tên trong sổ đỏ sẽ có quyền đối với nhà đất giống nhau.
Trong trường hợp là vợ chồng hợp pháp nhưng vợ hoặc chồng đồng ý làm thủ tục đứng tên sổ đỏ một mình (có biên bản đồng ý thỏa thuận đứng tên 1 mình vợ hoặc chồng giữa 2 bên) thì sổ đỏ chỉ có tên một người.
Tuy nhiên liên quan đến vấn đề sổ đỏ đứng tên một mình chồng khi bán vợ có phải ký tên hay không có 2 trường hợp xảy ra.
1. Trường hợp Sổ đỏ đứng tên một mình chồng là tài sản riêng trước hôn nhân:
Đối với trường hợp này, theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 và Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình (có hiệu lực từ 15/2/2015) tài sản riêng của vợ, chồng gồm: Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; Tài sản được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của luật này; Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng; Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Trong trường hợp này, để chứng minh được đây là tài sản riêng trước hôn nhân, người chồng cần phải cung cấp đầy đủ các giấy tờ chứng minh đó là tài sản riêng, gồm: Nếu đất nhận chuyển nhượng: Phải cung cấp “cam kết tài sản riêng” với vợ và có công chứng, chứng thực hợp lệ; Nếu đất được nhận thừa kế riêng, được tặng, cho riêng thì phải có văn bản công chứng, chứng thực thể hiện rõ.
Nếu các loại văn bản trên được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chấp nhận là có giá trị pháp lý, công nhận là nhà đất là tài sản riêng trước hôn nhân của chồng. Lúc này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) đứng tên một mình chồng khi bán, cho, cầm cố,... không cần có có chữ ký đồng ý của vợ.
2. Trường hợp Sổ đỏ đứng tên một mình chồng là tài sản chung của vợ chồng sau khi kết hôn: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ chồng nếu quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trường hợp không có căn cứ để chứng minh quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì được coi là tài sản chung.
Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”. Theo đó, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung thì chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như vợ.
Như vậy, nếu nhà đất, tài sản của vợ chồng thuộc 1 trong 3 nhóm trên sẽ là tài sản chung của 2 vợ chồng nên sổ đỏ đứng tên một mình vợ (hoặc chồng) khi bán phải có chữ ký của chồng (hoặc vợ) thì hợp đồng mua bán nhà đất mới có hiệu lực pháp lý.
Nếu là tài sản chung mà chồng tự ý chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà không có sự đồng ý của vợ thì vợ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.