Đầu tiên huyết tiểu bản có tác dụng vô cùng quan trọng trong quá trình khởi động đông huyết và quá trình phát triển của các cục huyết động.
Thuốc chống huyết tiểu bản chủ yếu nhằm mục đích khống chế huyết tiểu bản tụ tập như asperin chủ yếu thông qua con đường ức chế acid lỏng về lạc, như lupicơ lây thông qua con đường ADP.
Cuối cùng khống chế huyết tiểu bản dính lại, công năng tụ tập và phân tiết, từ đó mà ức chế nghẽn mạch phát sinh và phát triển. Chủ yếu dùng để phòng chữa nghẽn mạch và chữa trị não chết cứng không phải do tim gây nên.
Điều trị chống đông máu là nhằm điều trị huyết trong quá trình đông cứng. Huyết dịch trong người bình thường có công năng làm cho đông máu lại, quá trình máu đông là một phản ứng liên hoàn phức tạp của chất albumin thủy giải hoạt hóa.
Bao gồm 12 gien đông máu đánh số bằng chữ la tinh kích hoạt theo thứ tự nhất định và tham dự nhiều loại lên men, cuối cùng làm cho huyết dịch biến thành những cục đông máu.
Điều trị chống đông máu là dùng thuốc có những gien đông máu, ở mức độ nhất định ngăn cản huyết đông đặc nhằm đạt được mục đích phòng chữa nghẽn mạch.
Trên lâm sàng chủ yếu dùng cho phẫu thuật nhìn bằng mắt, tu bổ động mạch, làm cho huyết quản hợp lại, phẫu thuật bắc cầu cho tim, nối lại tay chân bị đứt, kiểm tra ống dẫn tim, chụp ảnh ông dẫn huyết quản não, phân tích huyết.
Chống đông máu ở thận nhân tạo và cơ tim chết cứng, tắc nghẽn do tim, tắc nghẽn phổi là những khí quan quan trọng hình thành nghẽn mạch để điều trị.