Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Nguồn: VGP.
Thông tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã từ trần vào hồi 20 giờ 10 phút, ngày 22/4/2019 tại nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, Thành phố Hà Nội
Lễ Viếng, Lễ Truy điệu, Lễ An táng đồng chí Lê Đức Anh sẽ được Ban tang lễ Nhà nước thông báo sau.
Tiểu sử nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh có bí danh Sáu Nam, sinh năm 1920, tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông tham gia cách mạng từ năm 1937, trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Một năm sau, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam Năm 1944, ông tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng, Chính trị viên Tiểu đoàn, Trung đoàn. Từ tháng 10/1948 , ông là Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ 1951, ông là Tham mưu phó, quyền Tham mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ, rồi Cục phó Cục Tác chiến; Cục Trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8/1963, ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 2/1964 đến 1974, ông là Phó Tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam; Tư lệnh Quân khu 9. Ông đảm nhiệm Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam từ 1974. Tháng 6/1974, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng, làm Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư Lệnh cánh quân hướng Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Khi đất nước thống nhất, ông làm Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980. Năm 1981-1986, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Camphuchia; được Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 5 bầu vào Bộ Chính trị (năm 1982); được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984; giữ chức Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1986. (Theo VnExpress) |