Tội ác diệt chủng: U uất tiếng sáo gọi hồn của người đàn ông có vợ và 5 con bị sát hại trong hang đá
Trong thảm họa Ba Chúc, vợ, 5 con, đứa lớn mới 14 tuổi, đứa nhỏ mới lên 6 cùng em trai, cô ruột của ông Ba Lê đã chết thảm trong hang đá sau những loạt súng điên cuồng của quân diệt chủng.
LTS: Năm 1978, xã Ba Chúc (nay là thị trấn Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang) nơi cách biên giới Campuchia chừng 7 km đã bị quân Pol Pot bất ngờ tấn công.
Trong vòng 2 tuần từ ngày 18 đến ngày 30/4/1978 đã có đến 3157 dân thường Ba Chúc bị Pol Pot thảm sát. Phần lớn nạn nhân bị sát hại vào ngày 18 tháng 4, khi một toán quân Pol Pot xâm nhập dồn hết dân làng vào các ngôi chùa và trường học rồi ra tay khát máu sát hại. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, bị đóng cọc vào chỗ kín, trẻ em thì bị đâm lê trước khi giết chết.
Thảm họa diệt chủng ở Ba Chúc vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức kinh hãi của những người may mắn sống sót.
Căm phẫn trước núi xương người
Chúng tôi đến Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang), thị trấn cách biên giới Campuchia chưa đầy chục cây số khi Vu lan đã vào chính lễ. Cả thị trấn nhưng nhức mùi nhang. Ở đây, mỗi tấc đất, mỗi hốc, mỗi hang, mỗi cành cây, ngọn cỏ như còn in dấu, như còn lởn vởn những oan hồn- nạn nhân của trận thảm sát kinh hoàng trong lịch sử loài người năm 1978.
Ngày ấy, giữa tháng 4, Khmer Đỏ từ biên giới bất ngờ ập vào đã điên cuồng đốt phá, giết chóc dân lành. 3157 người dân vô tội đã chết dưới sự dã man không thể tưởng tượng của quân diệt chủng.
Ngày ấy, người chết đầy đồng. Ngày ấy, những xác chết chồng chất lên nhau, nằm co quắp dưới cái nắng cháy da người trông chẳng khác nào những hình ảnh trong chuyện kinh dị, ma quái. Ngày ấy, nhiều người sống sót không dám trở lại làng bởi không thể chịu nổi tang thương lịch sử.
Vết tường loang máu, chứng tích về tội ác của quân diệt chủng.
Khu chứng tích tội ác diệt chủng Pôn Pốt đang được xây dựng mới, to đẹp hơn, khang trang hơn. Đứng trước 1159 bộ hài cốt còn lưu giữ tại đây thì bất cứ ai cũng không khỏi xót xa, căm phẫn. Xương người được chất đầy trong những sọt lớn, chất đầy ú hụ trong ngôi nhà rộng hơn chục mét vuông.
Đến Ba Chúc, người đầu tiên chúng tôi muốn gặp là ông Ba Lê. Trước khi lần hồi tìm đến chốn đau thương này, tiếng sáo gọi hồn, tiếng đờn ai oán của ông đã danh lừng khắp chốn. Ông Ba Lê tên đầy đủ là Bùi Văn Lê, sinh năm 1940.
Nhà ông Ba Lê cách nhà mồ Ba Chúc hơn cây số. Hỏi đường dễ lắm bởi ở đất này, con nít cũng biết đến người đàn ông tóc búi của hành, vận áo bà ba, mặt lành như bụt ấy. Người dân ở đây bảo, tắm mình trong nỗi đau nên giọt sáo, giọt đàn của ông Ba Lê như mũi dao, ngày một sắc, ngọt nghe như khứa vào tâm can vậy.
Theo đạo Tứ Ân hiếu nghĩa, đạo thờ cha mẹ, như nhiều người dân ở đất nắng gió này, Ba Lê được sinh ra trong sự yêu thương, dưỡng dục theo tính ngoan lành. Năm 20 tuổi, ông lấy vợ, cũng người ở mảnh đất biên viễn xa xôi ấy. Khói lửa chiến tranh chẳng thể làm tắt nụ cười hạnh phúc, 5 đứa con đẹp như tranh vẽ của ông lần lượt chào đời.
Ông Ba Lê thắp nhang trước hang đá nơi vợ cùng 5 con bị quân diệt chủng sát hại.
Vấy máu kinh hoàng ngay chốn thiền môn
Ngày ấy, Ba Lê cùng vợ vui vầy ruộng nương, khi ngày rằm, ngày lễ thì lên chùa nương theo những lời kinh cầu của đức bổn sư Ngô Lợi (Sáng tổ của đạo Tứ n hiếu nghĩa).
Bổn sư Ngô Lợi là một chí sĩ yêu nước. Ông theo phong trào Cần Vương đánh Pháp, bị truy lùng ráo riết nên chạy từ Mỹ Tho (Tiền Giang) lên đây lập đạo, tu hành để che mặt kẻ thù. Truyền đạo, ông truyền lòng yêu nước tới các tín đồ của mình. Bởi thế, nghĩ những người theo đạo Tứ n là những người chống đối nên thực dân Pháp, rồi đế quốc Mỹ sau này đã nhiều lần kéo quân lên tàn sát dân lành, đốt phá chùa chiền.
Trải qua nhiều pháp nạn nên khi đất nước thống nhất, người dân nơi khác mừng một thì dân Ba Chúc mừng mười. Ai cũng nghĩ, từ nay, dưới bóng thanh bình, mọi người sẽ được yên ổn làm ăn, một lòng chuyên tu theo đạo. Nhâm nhi ly nước trà thơm ngát, trầm ngâm, ông Ba Lê bảo, ngày ấy, chẳng ai có thể nghĩ môn đồ Tứ n lại phải trải qua một kiếp nạn kinh hoàng đến vậy.
Đến bây giờ, ngay cả trong giấc ngủ chập chờn, ông Ba Lê cũng chẳng thể quên được những ngày khủng khiếp đó. Ngày ấy, khi chiến tranh biên giới phía Bắc vừa nổ ra, biết trước được thế nào bè lũ Pol Pot cũng giở trò nên bộ đội đã nhanh chóng tổ chức di dân đến vùng an toàn.
Ba Chúc thời đó có khoảng 16 nghìn dân. Máy cày, ô tô, máy kéo đã được huy động để chuyển dân nhưng không xuể. Nhiều người không muốn xa quê hương, nhiều người muốn ở lại để giữ mái chùa, tổ đường của đạo và nhiều người đã nghĩ, giặc thì cũng là người, chẳng thể xuống tay tàn độc với những người dân vô tội. Bởi thế, đã nhiều người ở lại và chỉ vài ngày sau phải hứng chịu thảm họa kinh hoàng.
Ông Ba Lê khi đó là Hội phó hội Chữ thập đỏ xã, bởi thế, ông muốn ở lại để cứu giúp mọi người nếu biến cố xảy ra. Thêm nữa, một bày con nhỏ liu riu, ông chẳng thể chen chúc theo đoàn người di tản.
Xương người, nạn nhân của quân diệt chủng được lưu giữ tại Ba Chúc.
Cụm dân cư nơi ông ở nằm ngay dưới chân núi Tượng, một trong 7 núi của quần thể Thất Sơn huyền bí. Trên núi có chùa Long Châu cổ kính, cũng một nơi tu tập của môn đồ Tứ n. Trên núi có nhiều hang đá, trước khi Pol Pot tấn công, ông đã tìm cho mình và gia đình một hang ở ngay sau chùa. Lúc ấy, ông nghĩ, khi có biến, ông sẽ đưa vợ con mình lên đó để ẩn náu.
Ông Ba Lê kể, đêm rằm tháng 3 âm lịch, khi gia đình ông và mọi người còn đang hí húi cúng rằm thì tiếng súng, tiếng pháo nổ chát chúa bất ngờ vang lên từ mạn biên giới. Quân giặc tràn vào. Bởi lực lượng mỏng nên phòng tuyến của quân và dân ta đã bị chọc thủng.
Quân diệt chủng tràn vào Ba Chúc. Đi tới đâu là chúng điên cuồng đốt phá. Nhiều người dân không di tản đã sợ hãi rút lên các ngôi chùa ở gần đó như chùa Tam Bửu, Phi Lai, Long Châu để ẩn náu. Ai cũng nghĩ, chốn thiền môn thanh tịnh, quân giặc sẽ không dám giết người.
Ông Ba Lê đưa vợ và 5 con, 2 bà cô, em trai của mình lên hang đá đã chọn ở sau chùa Long Châu trú thân. Vào đến Ba Chúc, với khẩu hiệu giết sạch, đốt sạch nên quân thù đã như thú dữ, chúng vào chùa lôi lương dân vô tội ra cuồng loạn bắn, giết.
Xác người chất chồng lên nhau. Trẻ em, phụ nữ quân giặc cũng chẳng tha. Phụ nữ thì bị hãm hiếp, bị nhét gạch đá, lá cây thậm chí thọc gậy tầm vông vào vùng kín cho đến chết. Trẻ em thì bị quật vào tường, bị tung lên không trung cho rơi vào lê nhọn.
Qua cửa hang, nhìn xuống sân chùa, ông Ba Lê đã run lên bần bật khi chứng kiến cảnh tượng kinh hãi ấy.
Chết lịm khi tận mắt thấy cả gia đình bị sát hại
Giết hết người ở phía ngoài, quân giặc đưa chó săn đi lùng sục khắp nơi để tìm những người dân còn đang lẩn trốn. Mấy ngày ở trong hang tối, thiếu ăn, khát nước, các con ông khóc rỉ ri. Có đứa như chết lả.
Ở các hang khác, bởi sợ tiếng khóc sẽ khiến quân thù phát hiện, nhiều người đã phải tự giết con mình. Đau đớn đến tê dại. Đến ngày thứ 6 thì hang gia đình ông ẩn nấp bị lộ. Đám chó săn đã đánh hơi biết trong hang có người. Hang hẹp, lại nông nên chỉ sau một loạt đạn, vợ và các con ông đã gục xuống. Nép mình ở ngay cửa hang, ông đã may mắn thoát khỏi loạt đạn truy hồn ấy.
Không còn đường lui, ông liều mình vọt ra khi loạt đạn thứ hai của kẻ thù vừa dứt. Vừa ra đến cửa hang, tưởng tên giặc này hết đạn nào nghề tên giặc khác đã nhào tới chĩa súng. Như một phản xạ tự nhiên, ông nhào mình xuống vực, lăn lông lốc trước vệt đạn bắn theo.
Bia mộ tại nhà mồ Ba Chúc.
Thoát khỏi tầm đạn ấy, dù bị thương ở cả hai chân, ông đã cố lết về phía núi Dài (Ngọa Long Sơn) ở ngay gần đó để tìm chỗ trú ẩn. Nép mình vào phiến đá, nhìn về núi Tượng, thấy giặc quăng lựu đạn vào hang, biết thân nhân của mình chẳng thể sống sót, ông như chết lịm.
Hơn một giờ đồng hồ sau, khi quân giặc rút đi, ông mới liêu xiêu quay lại. Ông Ba Lê bảo, khi ấy, đau đớn tột cùng nhưng ông không thể khóc. Ông nghĩ phải giải cứu mọi người, phải đưa mọi người tới nơi an toàn. Xuống núi, có thể gặp quân giặc, những người dân tay không tấc sắt có thể bị giết nhưng ở đây thì kiểu gì cũng chết bởi chắc chắn kẻ thù sẽ quay lại.
Khi tụ tập trước trong chùa Long Vân, cụm dân cư nơi ông ở có hơn 200 người nhưng giờ chỉ có trên 40 còn sống. Mọi người theo ông cố sức chạy về Ngọa Long Sơn, nơi mà bộ đội ta đang căng sức cố thủ.
Xuống đến làng, đang băng qua cánh đồng thì gặp giặc. Đạn M.79 của những tên sát nhân máu lạnh vãi ra như mưa. Hết lớp người này đến lớp người khác ngã xuống, máu tươi bắn sang người bên cạnh đỏ thẫm. Không còn thấy sợ nữa nên ai cũng cố sức chạy. Tới Ngọa Long Sơn thì kiểm lại thì chỉ còn có 7 người và ai cũng bê bết máu.
Tiếng sáo gọi hồn ai oán
11 ngày sau, bộ đội ta phản công, đúng ngày 30/4/1978 thì Ba Chúc được giải phóng. Nỗi đau quá lớn, ông không dám bước chân về quê. Ông lang thang khắp nơi, sống như một cái xác không hồn.
Hết mùa nước nổi, khi nỗi nhớ quê, nhớ mái chùa yên ả quê mình dâng lên quá đỗi, ông mới thất thểu tìm về. Ông kể, ngày ấy, khi ông về, xóm làng tang thương lắm. Nhà cửa giặc đốt cháy xác xơ, đồng làng nước rút chỉ toàn xương trắng.
Nhiều ngôi nhà chẳng có bóng người bởi tất thảy họ đã chết dưới bàn tay tàn độc của quân giặc hung hãn. Đau đớn, bàng hoàng nhưng ông cố nín chịu. Ông cùng mọi người ra đồng gánh xương người chết về đặt tạm trước cửa chùa Tam Bửu, tổ đường của đạo Tứ n những mong dưới bóng từ bi, những linh hồn vô tội ấy được siêu thoát.
Suốt nhiều năm sau đó, cứ khi rảnh là ông lại lên hang nơi vợ cùng các con ông chết thảm não nề thổi sáo. Tiếng thê lương ấy, dân trong làng bảo là tiếng sáo gọi hồn…
(Còn nữa)