Lý giải nguyên nhân pho tượng cổ có thể tự... đứng lên ngồi xuống ở Hải Phòng
Pho tượng với dáng vẻ oai nghiêm, lẫm liệt, đầu đội vương miện, mình khoác áo lụa bào, tay cầm văn tự. Đặc biệt pho tượng có thể đứng lên, ngồi xuống khiến nhiều người ngỡ ngàng.
Truyền thuyết “đàn voi được tạc từ 7 hạt gạo nếp”
Làng Bảo Hà được coi là cái nôi của nghệ thuật tạc tượng và múa rối trong cả nước. Cho đến ngày nay, qua bao nhiêu đời nhưng những nét tinh tế trong những tác phẩm điêu khắc nơi đây vẫn còn nguyên vẹn.
Cụ Nguyễn Công Huệ là người có công sáng lập truyền dạy nghề cho dân làng. Theo câu chuyện một số bậc cao niên trong làng kể lại. Khi giặc Minh đô hộ nước ta, cụ Huệ cùng một số thanh niên bị bắt đưa sang Quan Xưởng ở Trung Quốc làm việc.
Bức tượng tự đứng lên ngồi xuống nằm trong khuôn viên miếu Bảo Hà (miếu Cả).
Chính trong quãng thời gian này, cụ đã chuyên tâm học nghề chạm khắc, sơn mài và châm cứu. Sau khi được thả về, cụ Huệ đã truyền dạy nghề tạc tượng lại cho dân làng.
Nhằm khắc ghi công ơn truyền dạy nghề, mọi người suy tôn cụ là tổ nghề tạc tượng và được thờ tại miếu Bảo Hà.
Nhắc đến tinh hoa của nghề tạc tượng ở Bảo Hà, những du khách mỗi lần đến thăm nơi đây thường được người dân kể cho nghe một câu chuyện liên quan đến 1 trong những học trò nổi tiếng của cụ Nguyễn Công Huệ là người thợ tạc tượng tài ba tên Tô Phú Vượng.
Biết được danh tiếng của cụ Vượng, vua Lê Cảnh Hưng đã cất công cho người đến mời vào cung tạc giúp nhà vua một chiếc ngai vàng. Sau ngày đêm làm lụng vất vả, chiếc ngai vàng của vua đã được hoàn thành bởi đôi bàn tay tài hoa của cụ.
Sung sướng trước thành quả đạt được sau nhiều ngày đêm miệt mài, cụ Vượng đã ngồi thử lên chiếc ngai vàng. Sự việc sau đó bị 1 tên thái giám phát hiện và bẩm báo với nhà vua.
Cận cảnh bức tượng đặc biệt mô phỏng Đức Linh Lang Đại vương.
Cụ Vượng sau đó bị khép vào tội “khi quân phạm thượng”, cụ bị bắt giam trong đại lao để chờ đến ngày ra pháp trường xử tử.
Ngồi trong ngục, nhìn những cọng rơm nếp còn sót một vài hạt thóc. Dưới con mắt nghệ thuật và đôi bàn tay khéo léo cùng trí tưởng tượng tuyệt vời của mình, một đàn voi 7 con với 7 tư thế đứng, nằm, ngồi khác nhau đã ra đời từ 7 hạt gạo nếp.
Câu chuyện được truyền đến tai nhà vua, vì ngưỡng mộ tài năng của cụ, vua Lê đã quyết định tha bổng và phong cụ tước “Kỳ tài hầu” cho về quê mở mang, lưu truyền nghề nghiệp.
Cho đến nay, nhân dân trong làng vẫn còn truyền tụng giai thoại “7 hạt gạo nếp tạc thành đàn voi” để ca ngợi sự tài hoa trong đôi tay người thợ tạc tượng Bảo Hà.
Bức tượng tự đứng lên ngồi xuống
Nhắc đến những tác phẩm được coi là tinh hoa của nghề tạc tượng Bảo Hà, chắc hẳn không thể thiếu được bức tượng Đức Linh Lang Đại vương (hiện đang được đặt trong miếu Bảo Hà).
Bảo Hà là ngôi miếu thuộc địa phận của 3 thôn: Bảo Động, Hà Cầu và Mai An thuộc xã Đồng Minh (Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Người dân nơi đây quen gọi ngôi miếu này với cái tên miếu Cả.
Miếu Cả thờ Đức Linh Lang Đại vương và cụ tổ của nghề tạc tượng là Nguyễn Công Huệ. Điều thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến với miếu Cả bởi nơi đây vẫn còn lưu giữ được 1 pho tượng cổ rất kỳ lạ. Bức tượng có thể đứng lên, ngồi xuống như một con người thật sự.
Giếng bán nguyệt nằm ngay trước pho tượng Đức Linh Lang Đại vương.
Nếu như ở những ngôi chùa khác, tượng phật thường được đúc rất to lớn thì ở miếu Cả bức tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương chỉ được tạc cao bằng người thực.
Bức tượng đứng lên ngồi xuống mang nét mặt oai nghiêm, lẫm liệt, đầu đội vương miện, mình khoác áo lụa bào, tay cầm văn tự. Đây được xem như là sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” của tổ tiên.
Những nghệ nhân xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để thổi hồn vào bức tượng để trở nên kỳ lạ, huyền bí. Chính vì thế, đây được xem là một bức tượng độc đáo, hiếm có trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam.
Theo thần phả, Đức Linh Lang Đại vương là hoàng tử thứ 4 của vua Lý Thánh Tông sinh năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân, thân mẫu sinh ra ngài là cung phi thứ 9, quê ở trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội).
Lúc bấy giờ, giặc Tống xâm lược nước ta, Hoằng Chân khi ấy mới 18 tuổi nhưng đã tình nguyện theo vua cha đi chống giặc đánh quân Tống. Trong một lần hành quân, Hoằng Chân đã tới trang Linh Động dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, tuyển mộ quân, xây dựng Linh Động thành một vùng đất trù phú.
Khi Hoằng Chân mất, người dân đã xây miếu thờ ngay trên nền đồn binh xưa và phong ngài là Thành hoàng làng để ghi nhớ công ơn hoàng tử. Một lần nọ, cao niên trong làng nằm mộng.
Trong giấc mơ, người cao niên được báo sẽ có một khúc gỗ trôi trên sông Vĩnh Chinh (sông Hóa ngày nay) chảy qua địa phận của làng. Ngay ngày hôm sau, nhân dân trong làng ra sông thì nhìn thấy khúc gỗ nên đã vớt về và tạc thành bức tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương.
Bí mật về việc bức tượng Đức Linh Lang Đại vương có thể tự đứng lên, ngồi xuống nằm ở cánh cửa ngay điện thờ. Khi mở dần cánh cửa thì bức tượng dần đứng lên nhưng khi khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu.
Những quả bưởi thả từ giếng bán nguyệt sẽ tự trôi ra chiếc ao cách đó 400 - 500m.
Sự chuyển động của bức tượng đã khiến cho những người đến đây trầm trồ khen ngợi về sự tài hoa của người thợ làng Bảo Hà và làm cho ngôi miếu này trở nên linh thiêng.
Cụ Nguyễn Văn Nghĩa (85 tuổi, Trưởng Ban quản lý di tích miếu Bảo Hà) cho biết: “Miếu Bảo Hà có không gian kiến trúc không lớn nhưng ở đây, dân làng còn lưu giữ được nhiều di tích quý tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc qua nhiều thế hệ của người Linh Động, Hà Cầu xưa.
Bức tượng gần 700 tuổi này là sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” của tổ tiên, là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối. Những nghệ nhân xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để “thổi hồn” vào bức tượng để trở nên kỳ lạ, huyền bí. Người dân ở vùng này coi đây là một báu vật, biểu tượng của một ngôi làng truyền thống”.
Trong miếu không những có pho tượng Linh Lang đại vương độc đáo mà còn có giếng bán nguyệt nằm trong miếu, ngay trước pho tượng cũng không kém phần thú vị, tạo nên nét huyền bí và linh thiêng cho ngôi miếu.
Điều thú vị là khi thả bưởi xuống giếng, bưởi sẽ trôi ra con sông Hóa cách đấy 1 km. Hiện nay, con sông này đã bị bồi lấp nên bưởi chỉ có thể trôi ra ao cách đấy 400 – 500 mét. Ao này được đặt tên là khu bưởi nổi.