Bố dượng tàn độc thiêu chết bé trai 6 tuổi đối diện với mức án nào?
Theo luật sư, gã cha dượng tẩm xăng thiêu chết bé trai 6 tuổi nếu có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất.
Bé trai 6 tuổi bị bố dượng tẩm xăng đốt tử vong ở Hà Nội
Liên quan đến sự việc bé trai Trần Gia K. (6 tuổi, tử vong) khi bị Hoàng Tiến Linh (40 tuổi, bố dượng) tẩm xăng đốt nhà xảy ra ngày 12/10, ở phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Vụ việc khiến ngôi nhà cấp 4 bị thiêu rụi cùng nhiều đồ đạc, nhiều người bị thương.
Được biết, Linh và chị Trần Kim S. (mẹ cháu K.) về chung sống với nhau được vài năm nay. Cả 2 người đều có gia đình và con riêng trước đó, Linh có con gái với vợ cũ còn chị S. có cháu K. Trước khi xảy ra sự việc, Linh và chị S. có xảy ra một số mâu thuẫn. Hiện Linh đang trong quá trình cai nghiện, hàng ngày vẫn phải uống thuốc cắt cơn.
Dưới góc nhìn pháp lý, luật sư Nguyễn Anh Thơm - Trưởng văn phòng luật sư Nguyễn Anh, Đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết, đối tượng có hành vi phạm tội làm chết người vì lý do nhỏ nhặt trong quan hệ vợ chồng.
Đặc biệt, đối tượng chuẩn bị xăng là chất dẫn cháy rất nguy hiểm mang sang nhà tìm gặp vợ để giải quyết mâu thuẫn là hành vi có chủ ý tước đoạt tính mạng người khác.
Đối tượng đủ nhận thức để hiểu dùng xăng là chất dẫn cháy hất vào vợ và con riêng sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Thực tế, khi gặp vợ đang bế cháu bé, đối tượng cố ý hất xăng lên 2 mẹ con rồi châm lửa thiêu làm bé trai 6 tuổi tử vong.
Chị S và một số thành viên trong gia đình may mắn thoát chết dù nhưng không tránh khỏi bị bỏng nặng. Ngoài ra, vụ cháy cũng khiến cho ngôi nhà cấp 4 cùng nhiều tài sản trong ngôi nhà bị thiêu rụi.
Khu vực ngôi nhà bị đốt
Theo quan điểm của luật sư, đối với những người bị thương tích, đối tượng vẫn phải chịu trách nhiệm trong trường hợp phạm tội Giết người chưa đạt được mục đích theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự 2015.
Hành vi phạm tội của đối tượng không những đã xâm hại đến quyền được sống của người khác mà còn xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Trong cùng một thời điểm, đối tượng đã phạm 02 tội đặc biệt nghiêm trọng, đó là tội Giết người và tội Hủy hoại tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, b, n Khoản 1 Điều 123 và Điều 178 Bộ luật hình sự 2015.
Đối với tội Hủy hoại tài sản, kết quả định tài sản thiệt hại của Cơ quan chuyên môn trong tố tụng hình sự sẽ làm căn cứ xử lý tương ứng đối tượng theo quy định tại Điều 178 BLHS 2015.
Bản thân cháu bé 6 tuổi là người không có lỗi gì trong việc mâu thuẫn giữa đối tượng và gia đình mà lại phải gánh chịu hậu quả bị sát hại dã man càng thể hiện hành vi phạm tội của đối tượng rất tàn bạo, mất hết tính người.
Hậu quả của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, gây tang thương mất mát cho gia đình người bị hại và gây mất an ninh trật tự trên địa bàn, khiến dư luận cả nước bất bình nên cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Nếu đối tượng phạm tội có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất đến tử hình cho cả 2 tội danh.
Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
n) Có tính chất côn đồ;
Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
c) Tài sản là bảo vật quốc gia;
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Để che giấu tội phạm khác;
e) Vì lý do công vụ của người bị hại;
g) Tái phạm nguy hiểm,
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.