Chuyên gia hướng dẫn cách phòng bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg
Trước khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên, sốt xuất huyết do nhiễm virus Marburg có thời gian ủ bệnh từ 2 - 21 ngày.
Cách phòng virus Marburg tốt nhất hiện tại là ngăn chặn sự lây truyền trực tiếp từ người sang người. Ảnh minh họa.
Trong thời gian ủ bệnh, Marburg không có tính lây nhiễm.
Tỷ lệ tử vong lên tới 90%
Vừa qua, Bộ Y tế đã có công văn đề nghị UBND các tỉnh, thành quan tâm chỉ đạo và viện vệ sinh dịch tễ, viện Pasteur, sở y tế tăng cường giám sát chặt chẽ người nhập cảnh, tại cộng đồng và cơ sở y tế. Qua đó, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh Marburg để điều tra dịch tễ.
Các địa phương cần lấy mẫu để xét nghiệm chẩn đoán; quản lý ca bệnh (nếu có) và xử lý không để bệnh lây lan ra cộng đồng. Thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng hộ cá nhân đối với nhân viên y tế và người tiếp xúc với trường hợp nghi ngờ mắc bệnh. Không để lây nhiễm cho nhân viên y tế cũng như lây lan trong cộng đồng.
Bộ Y tế cũng đề nghị các tỉnh, thành chủ động xây dựng kế hoạch đáp ứng theo các tình huống để sẵn sàng đáp ứng trong trường hợp dịch bệnh xảy ra tại địa phương, không để bị động. Sẵn sàng thuốc, trang thiết bị, nhân lực, kinh phí để triển khai các biện pháp thu dung, điều trị, phòng chống dịch.
Theo Bộ Y tế, Marburg là bệnh truyền nhiễm cấp tính (là bệnh truyền nhiễm nhóm A, theo Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm của nước ta) do virus Marburg gây ra. Ổ chứa tự nhiên là loài dơi ăn quả (Rousettus aegyptiacus).
Bệnh có thể lây truyền từ động vật (dơi, động vật linh trưởng) sang người. Bệnh lây từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết cơ thể (nước tiểu, mồ hôi, nước bọt, chất nôn, sữa mẹ, tinh dịch...) hoặc với môi trường vật dụng bị ô nhiễm bởi dịch tiết của người mắc, chết do virus Marburg.
Bệnh khởi phát với các triệu chứng sốt cao, đau đầu, khó chịu. Sau đó, có thể xuất hiện tiêu chảy, đau bụng, chuột rút, buồn nôn, nôn, xuất huyết. Đây là bệnh đặc biệt nguy hiểm, chưa có vắc-xin và thuốc điều trị đặc hiệu. Khả năng lây truyền và tỷ lệ tử vong do bệnh cao (50%, có thể lên tới gần 90%).
Virus tồn tại nhiều ngày sau khi hồi phục
Các biện pháp phòng ngừa virus Marburg gồm tránh tiếp xúc hoặc đến nơi cư trú của loài dơi ăn quả châu Phi, động vật hoang dã bị nhiễm virus như: Khỉ, linh dương rừng, loài gặm nhấm… Không ăn/tiêu thụ thịt của động vật hoang dã. Nấu chín kỹ thực phẩm trước khi ăn, nhất là các loại thịt. Phát hiện sớm và cách ly nhanh chóng hệ thống các ca bệnh. Đồng thời, truy vết kịp thời những người có tiếp xúc với người nhiễm Marburg. Giám sát chặt chẽ những người có nguy cơ cao nhiễm bệnh. Hạn chế tiếp xúc với người nghi nhiễm hoặc bị nhiễm virus Marburg. Mặc áo bảo hộ, đeo găng tay, khẩu trang, mắt kính, rửa tay thường xuyên… nếu tiếp xúc với người bệnh. Thận trọng với các chất thải như máu, bãi nôn, nước bọt, nước tiểu, phân… hoặc bất cứ đồ vật nào của người bệnh. |
TS.BS Đặng Thị Mai Khuê - Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cho biết, việc nhiễm virus Marburg ở người thường diễn ra do tiếp xúc lâu dài với phân hay chất tiết của dơi Rousettus.
Virus cũng có nguy cơ lây truyền qua đường tình dục. Một số báo cáo khoa học cho biết đã tìm thấy virus Marburg trong tinh dịch sau khi người nhiễm bình phục 7 tuần.
“Đối với nhân viên y tế, nếu thường xuyên tiếp xúc với người nhiễm bệnh mà không có biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt thì nguy cơ lây bệnh rất cao. Lây qua các thiết bị y tế nhiễm bẩn như kim tiêm thường liên quan tới tình trạng bệnh nghiêm trọng hơn. Đồng thời, có thể dẫn tới tỷ lệ tử vong cao hơn”, TS Khuê cảnh báo.
Trong môi trường chất thải người bệnh và ở bề mặt trung tính tại nhiệt độ phòng, virus có thể tồn tại nhiều ngày. Kể cả sau khi khỏi bệnh, virus Marburg vẫn còn tồn tại ở các vị trí như tinh hoàn và mắt của một số người.
Nếu nhiễm bệnh trong thời gian mang thai, virus sẽ có trong nhau thai, nước ối và cả thai nhi. Ở những phụ nữ đang cho con bú, nếu bị Marburg, virus có nguy cơ tồn tại trong sữa mẹ.
Trước khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên, sốt xuất huyết do nhiễm virus Marburg có thời gian ủ bệnh từ 2 - 21 ngày. Trong thời gian ủ bệnh, Marburg không có tính lây nhiễm. Các dấu hiệu bệnh sau đó thường khởi phát đột ngột.
Người bệnh thường sốt cao, đau đầu, đau họng, mệt mỏi dữ dội, đau cơ. Tiêu chảy nước, đau bụng, nôn và buồn nôn có thể xuất hiện từ ngày thứ ba của bệnh. Tiêu chảy có thể kéo dài cả tuần. Trong giai đoạn này, bệnh nhân trông giống “thây ma” với gương mặt thất thần, vô cảm, mắt thâm quầng, trũng sâu.
Trong khoảng 15 ngày sau khởi phát, bệnh nhân có thể có sẩn hồng ban, thường ở thân như: Ngực, lưng, bụng trên. Ngoài ra, xuất huyết có thể xuất hiện trong 7 ngày đầu. Đây là nguyên nhân gây tử vong cao.
Xuất huyết tiêu hóa bao gồm: Ói ra máu, tiêu ra máu tươi, chảy máu mũi, xuất huyết âm đạo. Trong giai đoạn này, bệnh nhân thường sốt cao. Ngoài ra, bệnh có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh bao gồm: Lú lẫn, kích thích, và kích động.
Viêm tinh hoàn có thể xuất hiện ở bệnh nhân trong giai đoạn muộn, khoảng 15 ngày sau. Bệnh có thể gây tử vong thường sau 7 - 8 ngày khởi phát bệnh do mất máu hay sốc. Các triệu chứng diễn tiến nặng bao gồm vàng da, viêm tụy, suy gan, suy đa cơ quan và xuất huyết nặng.
Trong khi đó, bác sĩ Lê Thị Trúc Phương - Hệ thống Tiêm chủng VNVC dẫn chứng:
“Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) Mỹ cho biết, hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu bệnh do virus Marburg. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị việc chăm sóc hỗ trợ sớm, điều trị theo triệu chứng, bổ sung chất điện giải, duy trì tình trạng oxy và huyết áp, xử lý các yếu tố đông máu và xuất huyết. Đó là cách cải thiện tỷ lệ sống sót cho người bệnh”.
Theo chuyên gia này, chưa có vắc-xin phòng virus Marburg. Hiện nay, có 5 ứng viên vắc-xin ngừa virus Marburg tiềm năng trong các nghiên cứu trên động vật.
3 nhà phát triển vắc-xin gồm Janssen Pharmaceuticals, Public Health Vaccines và Sabin Vaccine Institute.
Theo các chuyên gia y tế, cách phòng virus Marburg tốt nhất hiện tại là ngăn chặn sự lây truyền trực tiếp từ người sang người. Đồng thời, hạn chế sự lây lan virus từ vật chủ hoặc động vật bị nhiễm bệnh sang người.