Thứ sáu, 29/03/2024 | 20:54
RSS

Cải hoá giang hồ và chuyện tình khó tin nhưng có thật: Bài 1: Hai cuộc đời trái ngược

Thứ ba, 19/06/2018, 14:00 (GMT+7)

Lý tưởng sống của ông chỉ đơn giản là làm việc thiện. Việc thiện như nhành hoa, ông muốn khi nhắm mắt xuôi tay, nhìn lại thấy đời mình là cả một vườn hoa đẹp…

Cải hoá giang hồ và chuyện tình khó tin nhưng có thật: Bài 1: Hai cuộc đời trái ngược
Ông K. kể về những tháng ngày gian khó của đời mình

Một người là cựu binh, xông pha khắp các chiến trường, giải ngũ về quê với bộn bề những lo toan thường nhật. Người kia là kẻ giang hồ cộm cán, khét tiếng ở đất cảng Hải Phòng, nghiện ma tuý đến độ tiều tụy xác thân. Duyên trời đã khiến họ gặp nhau, rồi duyên trời khiến họ kết thành phụ tử. Tình thương Bồ Tát, vị cựu chiến binh ấy không những cải hoá gã giang hồ từ bỏ con đường lầm lỗi mà còn “liều lĩnh” gả cô con gái yêu kiều của mình cho kẻ tưởng như đã là người bỏ đi ấy.

Câu chuyện tưởng như không có thật trên đời này hiện vẫn khiến nhiều người ở  xã Nam Thái, huyện Nam Trực (Nam Định) trầm trồ kinh ngạc.

Lý tưởng sống của ông chỉ đơn giản là làm việc thiện. Việc thiện như nhành hoa, ông muốn khi nhắm mắt xuôi tay, nhìn lại thấy đời mình là cả một vườn hoa đẹp…

Triết lý “sống là nghĩa là cho”

Mọi người gọi ông ấy là “Phật sống”. Chẳng biết họ gọi vậy có quá không nhưng ở làng Phú Hào, hễ nhắc đến ông thì ai nấy đều nức lời khen ngợi. Họ bất ngờ, họ thảnh thốt bởi không hiểu vì sao trên đời này lại có người sống chỉ biết đến cho chứ không nghĩ là sẽ nhận!

“Phật sống” ấy tên đầy đủ là Nguyễn Trung K. Ông lý giải, các cụ thân sinh đặt cho ông cái tên ấy với mong muốn ông sẽ là người kiên định, sống chết với lý tưởng của mình. “Tôi thì sinh ra ở nông thôn, lớn lên đi bộ đội rồi lại về quê làm toàn những việc vác tù và hàng tổng. Lý tưởng thì ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng thấy có gì to tát.

Ngẫm ra thì chỉ có cái lý tưởng làm người. Một con người đúng nghĩa. Tôi kiên trung mỗi cái đó thôi!”. Ông mở đầu câu chuyện về đời mình như vậy. Ông sinh năm 1950. Năm 1972, chiến tranh đang ở giai đoạn ác liệt, ông giã từ mái quê nghèo lên đường tòng quân. Đất nước thống nhất, năm 1977, quê xưa đất cũ lại đón ông về.

Thời gian ấy vợ dại con thơ, nhưng với suy nghĩ “sống là cống hiến” ông nhận làm tất thảy những trọng trách mà dân tin, dân bầu. Từ đội trưởng dân quân, rồi công an viên và bây giờ là Chi hội trưởng Nông dân. Vợ ông bảo, ở làng này, ông là người có “thâm niên công tác” nhất.

Tuy nhiên, việc làng việc nước đấy nhưng toàn thấy tiêu tiền nhà. “Ông ấy đi tối ngày các chú ạ, việc nào cũng đến tay, việc nào cũng vơ vào mình. Khổ lắm! Tôi bảo nghỉ mấy lần rồi mà lần nào ông ấy cũng lý sự mình còn sức, còn cống hiến được thì phải cố gắng! Cứ như giời hành ấy!”.

Tuy nhiên, theo ông K. thì “nghiệp làm quan xóm” của ông cũng có một thời gian đứt gánh. Ấy là quãng thời gian đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Khi ấy, như bao gia đình ở miền quê nghèo này, nhà ông lao đao bởi cái đói hành hạ.

Đông con (cởi áo chiến y, ông đẻ liền mạch 5 người con) nên ông đành gác việc làng, theo đám phu vàng phiêu bạt vào Đà Nẵng rồi lên tận Tây Nguyên để mong tìm may mắn. Thế nhưng, vàng chẳng thấy đâu, những ngày sống nơi chốn rừng thiêng nước độc ấy đã khiến căn bệnh sốt rét rừng từng hành hạ ông từ những ngày quân ngũ tái phát. Thấy sức mình không trụ được ở nơi núi đỏ rừng xanh, gói chặt nỗi thất vọng trong chiếc ba lô bạc màu, ông lếch thếch trở về quê cũ.

 Về nhà, vẫn nguyên gánh nặng mưu sinh, bệnh sốt rét vẫn không thôi hành hạ, sức khoẻ của ông ngày càng suy kiệt. Gần làng ông có một ngôi chùa không có sư. Chùa này thiêng lắm, thế nhưng bởi không có người trông nom nên có phần lạnh lẽo, hoang tàn.

Buồn nản bởi bạo bệnh bám riết, cứ nghĩ duyên trần của mình đã cạn, sau một thời gian dài suy nghĩ, ông đã quyết định nương nhờ cửa phật. Ông xin chính quyền địa phương làm thủ từ, đảm trách việc khói hương, trông nom ngôi chùa quạnh quẽ đó. Ông bảo, đó là một quyết định không thể chuẩn xác hơn.

Từ ngày “hầu hạ đức Phật”, ông thấy lòng mình bỗng dưng nhẹ nhõm, thảnh thơi. Và, lạ kỳ hơn, chứng bệnh sốt rét từng làm ông khốn khổ, kiệt quệ cũng bỗng dưng tiêu tán. Biết mình có căn với Phật tuy chẳng quy y, nhưng gần 20 năm nay, dù ăn cơm nhà nhưng ông vẫn sớm hôm nhang khói, quét dọn chốn cửa thiền thanh tịnh này.

Cũng chính tại thiền môn ấy, ông đã “viết lên” câu chuyện cảm động có một không hai ở cõi nhân gian này. Câu chuyện bắt đầu từ cuộc đời của một gã giang hồ khét tiếng, từng làm mưa làm gió ở đất cảng Hải Phòng.

Đại gia lạc bước

Cách đây chừng 20 năm, nếu những cái tên như Cu Nên, Lâm già, Dung Hà… khiến các tay anh chị có máu mặt ở Hải Phòng bạt vía kinh hồn thì Nguyễn Văn D., còn gọi là D. “Hồng Bàng” cũng có “lãnh địa” riêng, cũng xưng hùng xưng bá chẳng ngại bất cứ “đại ca” nào. D. kể, nhà D. có 5 anh em, 3 trai, 2 gái.

Cải hoá giang hồ và chuyện tình khó tin nhưng có thật: Bài 1: Hai cuộc đời trái ngược
Nhớ chuyện xưa, Dũng trầm ngâm hút thuốc

Thời ấy, ở đất Cảng, nếu gia đình nào không có con cái khoác lên người tiền án, tiền sự thì coi như đại phúc. Nhà đông con, bố mẹ mải mưu sinh nên như nhiều thanh niên khác, mấy anh em D. (trừ hai cô con gái) đều “trưởng thành” từ “môi trường xã hội”. Học hết lớp 7, chán, D. bỏ để lêu lổng với đám bạn bụi đời.

Lang bạt kỳ hồ, D. là mối lo, là mầm hoạ lớn nhất của cả gia đình. Tuổi đôi chín, gia đình D. đã thở phào nhẹ nhõm khi hắn có giấy gọi nhập ngũ. Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang, khi giải ngũ D. vẫn chứng nào tật ấy. D. vẫn thích cuộc sống phóng khoáng, coi nhà mình chẳng khác gì nhà trọ.

D. khởi nghiệp bằng nghề buôn sắt vụn. Nghe thì thấy có vẻ đây là nghề của những kẻ hết kế sinh nhai nhưng lại là nghề thời thượng, kiếm bộn tiền lúc bấy giờ. Sau một thời gian ngắn ra nghề, nhờ những mối quan hệ xã hội trước đây, lại thêm sự liều lĩnh, D. đánh thẳng hàng từ Hải Phòng sang Trung Quốc qua đường Móng Cái.

Không biết khi đó dân buôn Trung Quốc gom sắt vụn, đồng nát làm cái gì mà mua với giá rất cao, bao nhiêu hàng chuyển sang cũng gật. Nói là sắt vụn chứ thực tế thì hàng D. đưa sang Trung Quốc toàn ray đường tàu và tôn dày được tuyển lựa kỹ.

Kiếm tiền vô khối, anh em D.sống xa hoa, ăn chơi như những ông hoàng ở thành phố Cảng khi ấy. Có tiền, chịu chơi, đương nhiên mấy anh em D. đều dính vào ma tuý.

Bây giờ, ngẫm lại D.g bảo, dường như số phận của con người đều do trời quyết định. Và, số trời đã không cho D. được… sướng. Khi bập sâu vào ma tuý thì cửa làm ăn ở Trung Quốc cũng sập. Chỉ mấy chuyến hàng bị cơ quan chức năng thu giữ, D. đã trắng tay.

* Còn nữa


Xem thêm: Hành trình vây bắt trùm ma túy đội lốt đại gia ở Lạng Sơn​

Phóng sự của Đào Thanh Tuy
Theo Đời sống Plus/GĐVN